Ngày tôi khám phá ra kinh Hơi Thở Chánh Niệm tôi rất hạnh phúc xem như mình đã tìm ra một kho báu có cảm tưởng tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Trong phạm vi một giờ đồng hồ tôi sẽ trình bày 16 hơi thở như thế nào để quí vị có thể nắm và thực tập
Ngày tôi khám phá ra kinh Hơi Thở Chánh Niệm tôi rất hạnh phúc xem như mình đã tìm ra một kho báu có cảm tưởng tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Trong phạm vi một giờ đồng hồ tôi sẽ trình bày 16 hơi thở như thế nào để quí vị có thể nắm và thực tập được ngay bây giờ, Đức Thế Tôn đề ra 16 hơi thở Tôi đã nghiên cứu rất kỹ tôi đã áp dụng chúng vào đời sống của tôi Những điều tôi giảng dạy đều xuất phát từ kinh nghiệm chứ không phải từ sự nghiên cứu và học hỏi trong sách. Chúng ta biết rằng hơi thở đầu mà Đức Thế Tôn đề nghị Là nhận diện hơi thở. Thở vào, tôi biết đây là hơi thở vào Thở ra, tôi biết đây là hơi thở ra.
Mục đích của hơi thở thứ nhất là nhận diện hơi thở vào và nhận diện hơi thở ra. Khi mình thở vào thì mình biết mình đang thở vào Khi mình thở ra thì mình biết mình đang thở ra muốn nhận diện thì mình phải có mặt đó mới nhận diện được. Trong lúc thở vào mà biết đây là hơi thở vào thì tự nhiên tâm của mình bám lấy hơi thở Nó biết đây là hơi thở vào Khi để tâm vào hơi thở thì không còn lo nghĩ về chuyện quá khứ, hay lo tương lai nữa. Tâm của mình có mặt với thân. Đó là kết quả có liền lập tức khi mình nhận diện hơi thở. Thở vào, tôi biết đây là hơi thở vào Thở ra, tôi biết đây là hơi thở ra. Cho nên hơi thở đầu này có công năng Đưa tâm trở về với thân Thì mình có mặt thật sự có mặt thực sự để tiếp xúc sâu sắc với những mầu nhiệm của sự sống đang có ở trong mình và xung quanh mình.
Chỉ cần nhận diện hơi thở. Đây là hơi thở vào. Đây là hơi thở ra. Là có thể làm được như vậy. Khi lái xe, rửa bát mình có thể thực tập bài này. Bất cứ một giây phút nào của đời sống hằng ngày mình cũng có thể thực tập hơi thở này. Đem tâm trở về với thân để thực sự có mặt mà sống sâu sắc với giây phút đó. Bài tập thứ 2: ĐI THEO HƠI THỞ Hơi thở có chiều dài của nó. Nó có điểm bắt đầu và chỗ chấm dứt. Trong khi thở vào mình phải bám sát lấy hơi thở từ đầu cho đến cuối. Tôi đang thở vào và tôi biết tôi đang thở vào. Tâm của mình hoàn toàn bám lấy hơi thở và không có một giây phút nào rời hơi thở cả.
Bám lấy hơi thở gọi là đi theo hơi thở Trong suốt hơi thở vào tôi hoàn toàn chú tâm vào hơi thở, do đó cái định của tôi không bị gián đoạn. Có thể trong hơi thở đầu, tuy là tâm tôi đã có khả năng nhận diện được đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra nhưng mà cái định chưa thể bằng so với hơi thở thứ hai. Bởi vì trong hơi thở thứ hai tôi hoàn toàn bám sát hơi thở, không hề rời hơi thở. Trong bài tập thứ hai này mình thấy rõ ràng niệm và định của mình vững chãi, sâu sắc hơn. Cố nhiên khi niệm, định vững chãi hơn thì sự có mặt của mình trong giây phút hiện tại vững chãi hơn. Và mình có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống một cách sâu sắc hơn, khi ấy mình mới thực sự sống đời sống của mình.
Tất cả những mầu nhiệm của sự sống ở trong ta và quanh ta luôn luôn có đó nhưng ta đã không có mặt cho nên ta không thừa hưởng được. Nên 2 hơi thở giúp ta trở về với chính mình để có mặt thực sự mà tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. cái đó gọi là “sống”. sống như một người sống. Khi tâm của mình trở về với thân . Bài tập thứ ba: Ý thức toàn thân Trong khi thở vào và thở ra mình chế tác một năng lượng chánh niệm. Năng lượng này giúp mình có mặt trong giây phút hiện tại. Vì vậy mình có thể định nghĩa: chánh niệm là năng lượng giúp mình thực sự có mặt trong giây phút hiện tại để biết được những gì đang xảy ra trong giây phút ấy.
Năng lượng này do chính mình chế tác ra trong khi thở vào và thở ra. Với năng lượng đó, mình tiếp tục nhận diện sự có mặt của thân thể mình, đó là mục đích của bài tập thứ ba. Thở vào tôi ý thức được sự có mặt của toàn thân thể tôi, dùng năng lượng chánh niệm để ôm lấy cơ thể, một sự đoàn tụ, trở về của thân và tâm rất sâu sắc. Thở vào tôi ý thức được sự có mặt của toàn thân tôi. Mình bắt đầu một cuộc trở về mà hơi thở là cửa ngõ. Trước hết mình trở về với hơi thở, khi trở về được với hơi thở rồi thì mình có mặt với thân thể. Bước thứ 3 khác với bước thứ nhất, thứ hai. Một trình tự rất hay Thở vào tôi ý thức toàn thân tôi Thở ra tôi biết hình hài tôi có đó.
Đó là cuộc đoàn tụ giữ thân và tâm. Trong khi mình lái xe, khi rửa bát, quét nhà mình có thể thực tập những bài tập này. Khi có mặt với thân thể thì mình có thể khám phá ra trong thân thể có những đau nhức, căng thẳng bị dồn chứa lâu ngày. Tại vì lâu nay mình không có tu Mình để những căn thẳng đau nhứt dồn chứa, rồi bệnh tật sinh ra. Nhờ trở về với thân nên mình giác ngộ ra những căng thẳng đau nhức trong thân. Do đó mình cần đến bài thực tập thư tư Bài tập thứ tư: Buông thư toàn thân. Buông thư toàn thân có nghĩa là làm cho hình hài lắng dịu xuống, làm cho những căng thẳng đi ra khỏi thân thể.
Khi những căng thẳng dịu xuống thì những đau nhức cũng theo đó mà giảm thiểu. Nếu mình căng thẳng nhiều thì đau nhức cũng sẽ nhiều từ căng thẳng đau nhức sẽ phát sinh ra bệnh tật. Trước hết là những bệnh thân rồi sau đó những bệnh tâm. Vì vậy bài tập thứ thứ tư có giá trị trị liệu lớn. và giá trị phòng ngừa. buông thư toàn thân trong tư thế ngồi trong tư thế nằm trong tư thế đứng, và ngay cả trong tư thế đi mình cũng có thể buông thư toàn thân được. Khi mình thực tập thiền đi Mỗi bước chân giúp mình loại bỏ những căng thẳng Đi như là đi chơi. “đường dài em bước như dạo chơi.” Vì vậy trong khi đi, mình có thể buông thư, buông thư tất cả những căng thẳng.
Thì mỗi bước chân như vậy giúp cho mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của đất trời: chim hót, thông reo, hoa nở Tịnh độ có mặt trong giây phút hiện tại. Bốn bài thực tập đầu liên hệ với cơ thể Quán thân trong thân. Có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc. Mới trở về với thân thôi. có thể buông bỏ được khổ đau và bắt đầu có những hạnh phúc rồi. Chúng ta đi sang lĩnh vực cảm giác. Chúng ta ngồi trên bờ dòng sông thứ 2 Dòng sông cảm giác. Có dòng sông cảm giác chảy đêm và ngày Mỗi cảm giác là mỗi giọt nước của dòng sông. Những cảm giác đó được phát sinh, tồn tại một thời gian rồi tiêu diệt để nhường chỗ cho những cảm giác mới phát sinh.
Bài tập thứ năm là học cách làm như thế nào để đem lại những cảm giác mừng vui. Và hơi thở thứ 6 là đem tới cảm giác hạnh phúc. Vậy làm như thế nào để chế tác mừng vui, chế tác hạnh phúc? Chúng ta rất cần những giây phút có sự mừng vui, cần những giây phút có hạnh phúc để được nuôi dưỡng. Tại vì chúng ta có những nỗi đau cần phải được ôm ấp và chuyển hóa. nếu chúng ta không đủ mạnh thì sẽ không thể ôm ấp và chuyển hóa Muốn có đủ sức mạnh để ôm lấy và chuyển hóa những niềm đau thì mình phải tự nuôi mình bằng những niềm vui, những hạnh phúc mà mình có thể chế tác được. Bụt đã dạy cho chúng ta rất nhiều phương pháp để đem lại cảm giác mừng vui, hạnh phúc.
Bất cứ lúc nào, nếu muốn là mình có thể có niềm vui, mình có thể có hạnh phúc. Hay như vậy đó! Trước hết là phương pháp buông bỏ Buông bỏ có thể đem tới niềm vui và hạnh phúc. Ly sinh hỷ. Ly sinh lạc. Niềm vui được phát sinh ra từ sự buông bỏ. Hạnh phúc được phát sinh từ khả năng buông bỏ. Có rất nhiều cái mình có thể buông bỏ được. Ví dụ khi mình có một ý niệm Nếu tôi không có được cái đó thì tôi sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Nếu tôi không loại trừ được cái đó thì tôi sẽ không bao giờ có hạnh phúc Mình có những ý niệm như vậy và những ý niệm đó nó không làm cho mình có hạnh phúc. như vậy thì mình cứ khổ hoài, không thể có niềm vui hạnh phúc.
Nhưng nếu mình bỏ được những ý niệm ấy ra ngoài thì niềm vui hạnh phúc ào ào đi tới. Thành ra những ý niệm, những tư tưởng của mình cũng là những nguyên do làm cho mình đau khổ. mình phải xét xem mình có những ý niệm nào, thành kiến nào cần phải buông bỏ. Càng buông chừng nào thì càng có hạnh phúc chừng đó. Cái đó gọi là ly sinh hỷ, ly sinh lạc. Hạnh phúc, niềm vui có được nhờ buông bỏ. Phương pháp thứ hai mà Bụt dạy để chế tác niềm vui và hạnh phúc là phương pháp chánh niệm. Niệm sinh hỷ lạc Niệm là năng lượng giúp cho mình có mặt trong giây phút hiện tại. Biết được, nhận diện được những cái gì đang thực sự xảy ra trong giây phút đó.
Niệm giúp cho mình biết rằng đây là hơi thở vào. Và khi thở vào mình biết rằng mình là một sinh vật. Mình là một người đang còn sống. Biết rằng mình đang còn sống, đó là một hạnh phúc rất lớn. Tại vì những người chết rồi thì làm sao mà thở vào được? Vì vậy cho nên khi thở vào tự nhiên mình giác ngộ được một sự thật là mình đang còn sống và đang còn sống là một phép lạ. Mình có thể ăn mừng phép lạ đó bằng cách thở vào và thở ra. chánh niệm cho mình biết mình là một thực tại mầu nhiệm và xung quanh mình là những sự sống mầu nhiệm. Cho nên khi có chánh niệm thì tức là sống có niềm vui và hạnh phúc.
Vì thế có thể nói chánh niệm là một nguồn sống vô tận của hạnh phúc. Ví dụ, tôi thở vào và có ý thức về trái tim tôi, trái tim tôi rất là dễ thương với tôi. Nó làm việc đêm ngày để bơm máu nuôi các tế bào trong cơ thể. Tôi thì có thể được ngủ năm hoặc sáu giờ trong một ngày đêm, còn trái tim của tôi thì phải làm việc liên tục. Ấy vậy mà tôi chưa bao giờ lân mẫn, để ý thương yêu đến trái tim của tôi. Tôi có thể đã hút thuốc, Tôi có thể đã uống rượu. Tôi có thể đã thức đêm và tôi làm cho trái tim của mình mệt nhoài. Bây giờ tôi thở vào một hơi và tôi đem năng lượng chánh niệm nhận diện sự có mặt của trái tim.
Thở vào: trái tim của ta ơi, ta biết ngươi có đó. Và mình ôm lấy trái tim bằng sự trân quý, bằng ý thức của mình. tự nhiên tình thương đối với trái tim được phát triển và mình nghĩ từ đây về sau mình sẽ không uống rượu, hút thuốc, thức khuya nữa để cho trái tim của mình có hạnh phúc. Khi ôm lấy trái tim với chánh niệm thì mình nhận ra một điều rất mầu nhiệm là trái tim của mình nó đang vận hành một cách bình thường. Có những người không có một trái tim bình thường, họ luôn sợ hãi, trái tim của họ có thể ngừng đập bất cứ lúc nào Điều mong muốn sâu sắc nhất của họ là có một trái tim bình thường như là trái tim của bất cứ ai. Khi thở vào, mình giác ngộ một sự thực là mình có một trái tim bình thường.
Và mình có thể ăn mừng sự kiện là có một trái tim bình thường. Và đó là do NIệm. Thở ra tôi biết trái tim tôi là một trái tim bình thường, mạnh khỏe. Ý thức đó đưa tới niềm vui và hạnh phúc. Cái đó gọi là niệm sinh hỷ lạc. Mà đâu phải trong cơ thể chỉ có mỗi trái tim thôi. Lá gan của tôi, thận của tôi cũng còn tốt. Hai chân của tôi còn mạnh. Tôi có thể chạy nhảy được Biết bao nhiêu là những điều kiện hạnh phúc có đó mà tôi vì không có ý thức, không có niệm cho nên không có hạnh phúc. Vì vậy, trở về với năng lượng chánh niệm. Nhận diện những điều kiện của hạnh phúc mình đang có thì tự nhiên sẽ có vô số hỷ, vô số lạc.
Khi nhìn ra ngoài, mình cũng thấy trời xanh hoa nở, biết bao nhiêu là mầu nhiệm của sự sống. Người thương của mình vẫn còn và sống chung với nhau dưới một mái nhà. Biết bao nhiều là điều kiện của hạnh phúc. Nó dư dả để cho mình không cần đi tìm thêm nữa. Tất cả những cái đó là điều nhờ công dụng của niệm. Vì vậy hễ thực tập thở vào – thở ra, trở về tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc mà mình đang có thì tự nhiên niềm vui, hạnh phúc được sinh ra liên tiếp. Đó là phương pháp Bụt dạy để có niềm vui và hạnh phúc Và mình có thể khẳng định rằng chánh niệm là một nguồn suối vô tận của hạnh phúc.
Năng lượng chánh niệm có thể được chế tác bằng hơi thở vào và hơi thở ra. Ly sinh hỷ lạc. Niệm sinh hỷ lạc. Định sinh hỷ lạc. Định cũng là một loại năng lượng. Có chánh niệm thì bắt đầu có định. Ví dụ như khi ý thức được sự có mặt của bông hoa thì mình có chánh niệm về bông hoa. Nhưng nếu duy trì chánh niệm được lâu dài thì mình chú tâm vào bông hoa đó nhiều hơn. Và như vậy thì cái định nó sinh ra từ cái niệm. Định càng hùng thì niệm càng hùng và hạnh phúc càng lớn. Ví dụ: Khi uống một tách trà thơm Thân và tâm nhất như. Mình có mặt thật sự thì chén trà trở thành một cái gì có thật. Sự tiếp xúc giữa mình với trà là sự sống đích thực.
Khi uống trà như vậy, có niệm có định thì chén trà rất là ngon. Còn nếu không, tách trà chỉ là một bóng ma mà thôi. Người thương của mình cũng vậy. Nếu mình không có niệm, không có ý thức rằng người thương của mình ở đó thì người thương của mình cũng như là một bóng ma. Mình chỉ sống với bóng ma. Vì vậy cho nên có niệm, có định thì tất cả đều trở thành sự thật. Điều đó đem lại rất nhiều niềm vui và hạnh phúc. Khi có niệm, có định thì mình có tuệ. Tuệ là cái thấy. Nếu mình có chánh niệm và mình tập trung cho vững Mình nhìn sẽ rất rõ, rất sâu và có được cái thấy. cái thấy này đem lại cho mình rất nhiều niềm vui và hạnh phúc Tuệ sinh hỷ lạc.
Người hành giả có khả năng chế tác được niềm vui , hạnh phúc trong mọi giây phút bằng những phương pháp pháp buông bỏ, chánh niệm, chánh định và tuệ giác. Trong Hỷ còn có sự xôn xao, còn có sự mong đợi. Nhưng trong Lạc thì mình hoàn toàn không còn sự xôn xao, còn sự mong đợi nữa. Mình thực sự hạnh phúc. Thành ra các pháp môn thực tập là đưa tới Hỷ, rồi đưa tới Lạc. Khi có Hỷ và Lạc rồi thì mình đủ mạnh và mình có khả năng nhận diện và ôm lấy niềm đau mà không trốn chạy, không khỏa lấp, không đàn áp niềm đau. Thở vào, tôi biết có một niềm đau trong tâm tôi. Đây là một cảm giác đau khổ, một khổ thọ.
Chúng ta có ba loại cảm giác: cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính. Bài tập thứ năm là để chế tác những cảm giác dễ chịu. Bài tập thứ sáu cũng là để chế tác những cảm giác dễ chịu. Còn bài tập thứ bảy là để xử lý những cảm giác đau buồn, để ôm lấy niềm đau. Khi nói ôm tức là phải có người ôm và người được ôm Niềm đau là đối tượng cần được ôm ấp, cần được công nhận. Niềm đau của ta ơi, ta biết rằng ngươi đang có mặt đó, ta không trốn chạy. Ta không giả bộ rằng ta không có niềm đau. Mình phải có can đảm chấp nhận sự có mặt của những niềm đau, nỗi khổ. Và phải dùng những năng lượng chánh niệm mà mình đã chế tác để nhận diện và ôm ấp lấy niềm đau nỗi khổ của mình.
Đó là bài tập thứ bảy, bài tập này bất cứ người hành giả nào cũng có thể làm được. Nếu mình dạy cho trẻ em thì các em cũng có thể làm được chuyện đó. Ở trong bài tụng Hướng Về Tam Bảo dành cho thiếu nhi có câu: Con xin lạy Bụt. Đã ban cho con. Giáo pháp nhiệm mầu Giúp con nuôi dưỡng. Tình nghĩa, hạnh phúc. Nụ cười, niềm tin. Dạy con biết thở. Ôm lấy niềm đau. Những lúc tâm con. Tham đắm, giận hờn. Si mê, ganh tỵ Đó là những bài kinh cho các em thiếu nhi nhưng kỳ thực đó là phương pháp cho các em thực tập. Thở vào, tôi nhận diện những nỗi khổ niềm đau trong thân tâm và tôi ôm lấy niềm đau đó. Nếu mình không có năng lượng chánh niệm thì với cái gì tôi có thể ôm ấp được nỗi khổ, niềm đau thì mình sẽ để cho nỗi khổ, niềm đau tràn ngập.
Muốn cho nỗi khổ niềm đau không tràn ngập thì mình phải có chánh niệm và chánh định. Nếu mình biết thực tập hơi thở thì mình liên tục chế tác ra chánh niệm, có năng lượng chánh niệm đó thì mình có khả năng ôm lấy niềm đau của mình. Mà đã ôm lấy nó thì tự nhiên mình bớt khổ. Cũng như khi một người mẹ đang làm việc ở trong bếp, nghe tiếng khóc của em bé, bà liền bỏ công việc xuống, đi vào và ôm lấy em bé một cách rất dịu hiền. nội chuyện ôm lấy bé với tất cả sự trìu mến và thương yêu thì em bé đã hạnh phúc rồi. Ở đây cũng vậy, khi mình có niềm đau, nỗi khổ nếu mình biết dùng chánh niệm để nhận diện và ôm lấy niềm đau nỗi khổ ấy thì dù chưa làm gì hết mình đã bớt khổ rồi.
Có năng lượng: là buồn đau. Và có năng lượng khác mà mình chế tác để ôm lấy niềm đau, là chánh niệm. Năng lượng thứ nhất được năng lượng thứ hai săn sóc, bảo hộ. Năng lượng thứ hai làm công việc của người chị lớn, người mẹ ôm lấy đứa con là khổ đau. Đó là sự mầu nhiệm của hơi thở thứ bảy, mà bất cứ một hành giả nào cũng phải làm cho được. Tại vì trong chúng ta người nào cũng có nỗi khổ, niềm đau mà chúng ta chỉ biết trốn chạy, khỏa lấp. Trong khi đó thì Bụt dạy đừng có trốn chạy, đừng có khỏa lấp, phải có can đảm nhận diện và ôm lấy niềm đau. Nhưng nếu quý vị không thực tập hơi thở chánh niệm thì làm sao quí vị có được những năng lượng đó để làm cái công việc là ôm ấp niềm đau.
Phải có bà mẹ mới ôm đứa con được. Mình phải thực sự có mặt mới ôm lấy những nỗi khổ, niềm đau được. Mà muốn thực sự có mặt để ôm lấy nó thì mình phải thực tập hơi thở. Thực tập hơi thở mình sẽ làm phát khởi năng lượng của chánh niệm. Và kết quả là hơi thở thứ tám giúp mình có thể làm lắng dịu niềm đau. Mình chưa thể chuyển hóa được niềm đau tận gốc. Nhưng sự kiện là mình đã có thể nhận diện được nó, ôm lấy nó một cách rất là dịu dàng, rất là trìu mến thì niềm đau đó sẽ dịu xuống, khổ đau đã vơi bớt rất nhiều rồi. Với những bài tập tiếp theo, mình có thể đi xa hơn để có thể chuyển hóa hoàn toàn gốc rễ của những nỗi khổ, niềm đau.
Nhưng ở đây chỉ nói nhận diện và ôm ấp thôi cũng đã có thể bớt khổ rồi. Tới hơi thở thứ chín chúng ta bước sang lĩnh vực của tâm. Nhận diện tâm. Tâm ở đây tức là tâm hành. Tâm ở đây không phải là cái gì trừu tượng nữa mà là cái mình biết rất rõ. Trong đạo Bụt có nói tới 51 tâm hành Tâm tựa như là một dòng sông trong đó có 51 tâm hành đang tuôn chảy. buồn, vui, thương, ghét, tuyệt vọng,.v.v.. để khi chúng phát hiện thì mình nhận ra liền và gọi tên chúng: A! Bạn là giận, tôi biết bạn tên là giận. Cũng giống như một sinh viên trường Dược phải thuộc tên của những dược phẩm. Trong 51 tâm hành có những loại tâm hành như tích cực như: Thảnh thơi, thương yêu, bao dung
Có những loại tâm hành tiêu cực như: giận hờn, ganh tị, thù hận nhận diện và gọi được tên của tâm hành mỗi khi chúng phát khởi. Giống như mình ngồi trên bờ sông tâm hành và quan sát, Nó là tích cực hay tiêu cực ta đều nhận diện chỉ diện đơn thuần, không bám lấy chúng cũng không xua đuổi chúng dù chúng là tâm hành tích cực hay tâm hành tiêu cực. Nó xấu cũng đừng tìm cách đuổi đi mà nó tốt cũng đừng nắm giữ. Nhận diện tâm đây không còn là một cái gì trừu tượng nữa mà rất là cụ thể. Nhờ sự thực tập hơi thở chánh niệm, mình luôn có mặt Để khi nào có một tâm hành phát sinh, biểu hiện thì mình nhận diện nó. không để cho nó tác yêu, tác quái.
Như vậy là mình làm chủ được tâm. Bài tập thứ mười: Làm cho tâm hoan lạc. Mình rất cần năng lượng để tiếp tục thực tập. Cho nên phải nhận diện tâm và làm cho tâm phấn chấn, tươi vui. Bài tập này có liên hệ tới chánh tinh tấn Trong con người mình có những tâm hành như: tha thứ, bao dung, niềm vui, hạnh phúc, tình thương, chí nguyện độ đời Tất cả những cái đó rất quý giá. Cho nên chúng ta phải làm như thế nào để những tâm hành đó được phát triển và đi lên. Mình vốn có sẵn những tâm hành rất thiện, rất lành được gia đình tổ tiên trao truyền nhưng mình không biết cách xử lý mà cứ để cho những tâm hành buồn giận, lo lắng, sầu khổ trấn ngự ghe lại tới nỗi điên cái đầu luôn mà không chịu dừng Vì vậy vấn đề ở đây là chọn CD.
Nếu cái CD đó không hay thì ta phải thay bằng cái CD mới, cái đó gọi là làm cho tâm mình hoan lạc. Thiếu gì những bản nhạc hay mà cứ phải nhai đi nhai lại những bài hát sầu đời để mặc cho nó kéo tâm mình chìm nghỉm xuống? Đây cũng vậy, nếu mình có tâm hành làm mình đau buồn khổ não, tạo sao cú ngồ đó mà chịu. Phải thay chốt đi! Thay CD đi! Ví dụ khi xem một bộ phim quá tệ mà ta cứ ráng ngồi chịu trận Tại sao không thay đài. Cái đó là sự thực tập làm cho tâm hoan lạc. có bao nhiêu là tâm hành tốt ở trong mình: Vị tha, đại nguyện, đại trí, đại bi, tha thứ, bao dung, niềm vui, tình yêu, hạnh phúc nhưng mình không chịu phát triển nó mà cứ để cho đau khổ, buồn rầu chiếm cứ lấy.
Đây chính là nội dung của bài thực tập thứ mười, ta gắng phải thực tập cho được. Một người tu khôn ngoan là một người biết cách làm hạnh phúc cho chính mình và làm hạnh phúc cho người khác. Đức Thế Tôn đã trao truyền cho chúng ta biết bao nhiêu là phương pháp hay. Bài tập thứ mười một: Đưa tâm vào định. Tâm của mình có thể bị phân tán và thất niệm, khi ấy ta dùng chánh niệm để đưa tâm trở về và đem tâm vào trong định. Khi tâm được tập trung, được gom lại thì tâm trở nên rất hùng tráng, từ đó có thể làm được những việc rất hữu ích. Cũng giống như ánh sáng, ánh sáng truyền đi bằng đường thẳng nhưng khi ta sử dụng thấu kính thì thấu kính đó giúp tập trung ánh sáng vào một điểm duy nhất.
Một khi chumg ánh sáng hội tụ tại một điểm thì nó tạo nên một sức nóng rất lớn có thể đốt cháy một tờ giấy. Tương tự như vậy, những si mê, lầm lạc của mình một khi mình có định thì những si mê lầm lạc ấy bị đốt cháy. Định có nhiều loại định: Định về không, định vô thường, định vô ngã, định tương tức, vô tướng, vô tác biết bao nhiêu là định. Chỉ cần có định thì phiền não sẽ bị đốt cháy. Nhiệm vụ của hơi thở thứ mười một là đưa tâm vào định, khi định tâm hùng hậu thì nó bắt đầu đốt cháy những phiền não, tháo bỏ những sợi dây trói buộc. Vô thường là một loại định chứ không phải là một lý thuyết. Ví dụ: Khi mình giận người kia, mình muốn trừng phạt người kia, mình tính nói một câu để người ấy khổ Tại vì người kia dám làm cho mình khổ.
Hoặc có thể mình đánh người kia một cái để cho người kia khổ, tại vì người kia dám làm cho mình đau khổ. Mình làm như vậy bởi vì trong mình có sự đau khổ giận hờn. Thì bây giờ mình sẽ thực tập một loại định gọi là định vô thường, mình nhắm mắt lại và bắt đầu thực tập: Thở vào tôi quán chiếu để thấy được sau 300 năm nữa thì tôi sẽ trở thành cái gì? Thở ra tôi quán chiếu cái người đứng trước mặt tôi sau 300 năm nữa sẽ trở thành cái gì? Mà định vô thường đâu cần tới 300 năm. Chỉ cần vài chục năm nữa là mình và người kia đã thành tro cả rồi. Thấy thế thì tội gì mà lại đi giận nhau? Mình chỉ có mấy chục năm để chơi với nhau thôi, vậy mà bây giờ hai đứa giận nhau, muốn làm khổ nhau thì đó là chuyện rất là ngu dốt.
Và mình chỉ cần cái định đó trong vòng hai giây thôi là cơn giận hờn kia nó tan biến. Khi mở mắt ra mình chỉ muốn ôm người đó vào lòng. Biết em còn sống anh mừng quá đi. Định về không, định vô thường, định vô ngã, định tương tức, vô tướng, vô tác.. Có nhiều cái định rất hay! Khi đưa tâm vào định thì phiền não sẽ bị đốt cháy. Bài tập thứ mười hai: Cởi trói cho tâm Tâm mình nó bị những sợi dây ràng buộc. Sợi dây sân hận, thù oán, tuyệt vọng làm cho mình đau khổ. Nhờ những cái định đó mà mình đốt cháy, mình tháo gỡ được, cởi trói được cho tâm, đó gọi là tâm giải thoát. Bài tập thứ mười ba: Quán chiếu về vô thường mình đi sang lĩnh vực của tri giác Khi nhìn cây bút mình biết đây là cây bút, đó là một tri giác.
Danh từ chuyên môn là Tưởng, Tưởng là một trong năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức Chữ Tưởng trong chữ Hán có chữ tướng ở trên . Mình nhận diện được cây bút vì nó có tướng mạo của vây bút. Mình nhận diện được bông hoa vì có tướng mạo của bông hoa. Nhờ nó có cái tướng cho nên mình tưởng được và phần dưới là chữ tâm. Cái tâm nhận ra được cái tướng đó nên gọi là tưởng . Tri giác của mình có thể là sai lầm. Thấy sợi dây mà tưởng là con rắn. Tri giác sai lầm gọi là vọng tưởng. Mình khổ là vì vọng tưởng. Vì vậy mục đích tối hậu của đạo Bụt là đào gốc vọng tưởng. Bốn hơi thở cuối có liên hệ tới tri giác.
Quán chiếu vô thường: Khi nhìn vào hình hài của mình, mình thấy nó là một dòng sông. Mỗi tế bào là một giọt nước. Mình thấy hình hài của mình không phải là một cái bất động mà là một dòng chuyển biến, qua đó mình thấy được tự tính vô thường của cơ thể. Nhìn vào tập album ta thấy cái hình của mình lúc 5 tuổi khác xa so với bây giờ. Rõ ràng là không có cái gì giống nữa. Về sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có cái gì giống hết vậy mà mình vẫn là cái tên đó. Cái tên của mình thì còn mà cả năm cái: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều thay đổi. Mình thấy được vô thường. Vô thường và vô tướng là một phép quán rất mầu nhiệm.
Tuy trong lý thuyết là sự vật vô thường, vậy mà mình vẫn cư xử như sự vật mãi là thường. Trên lý thuyết thì mình đều biết là cái người sống với mình đó mai mốt cũng sẽ chết nhưng trên thực tế mình cứ nghĩ người đó cứ sống hoài và mình đối xử không dễ thương. Nếu mình biết người đó vô thường thì ngày hôm nay mình có thể làm những điều đem lại hạnh phúc cho người ấy, nếu để đến ngày mai thì quá trễ. Vì vậy cho nên quán chiếu vô thường đem lại rất nhiều hạnh phúc. Mình biết rằng những cái gì mình có thể làm được cho người đó hạnh phúc thì phải làm ngay hôm nay chứ không thể đợi tới ngày mai. Và mình cũng biết rằng những xây dựng, công trình, những dự án mà không có lợi ích, không thiết thực thì mình không theo đuổi nữa.
Mình buông bỏ. Hay lắm! Phải thực tế mới được. Vì vậy quán chiếu vô thường đem lại rất nhiều hạnh phúc cho mình và người thương của mình. Bài tập thứ mười bốn: Quán chiếu vô dục Vô dục có nghĩa là không đáng để cho mình thèm khát. Không đáng để cho mình theo đuổi. Khi quán chiếu mình thấy những tai hoạ nằm sâu trong những đối tượng thèm khát. Đối tượng thèm khát rất hấp dẫn và mình như con thiêu thân, mình muốn lao mình vào mà không biết rằng làm như thế thì mình sẽ bị cháy xèo một cái là xong. Nhũng đối tượng thèm khát nó chứa những cái hiểm nguy, độc hại. Ví dụ con cá thấy một miếng mồi rất là hấp dẫn nó bèn tiến tới đớp một cái, đâu ngờ bị mắc câu? những mồi câu bằng nhựa trông rất giống thật Vì vậy phải nhìn cho kỹ đối tượng mà mình đang theo đuổi.
Đó là danh hoặc là lợi hoặc là sắc hoặc là dục. Tất cả đều có những hiểm nguy ở trong, nó không đáng để mình theo đuổi, không đáng để mình hy sinh cuộc đời vì nó. Cái đó gọi là quán chiếu vô dục. Khi quán chiếu vô dục được rồi thì mình có tự do, có thảnh thơi và hạnh phúc. không mảy may ham muốn, thèm khát, nên hạnh phúc rất lớn Bởi vì thấy được những hoạn nạn, tai ương, hệ luỵ trong những cái đó nên mình không hề muốn dính tới. Đó là kết quả của sự quán chiếu vô dục. Thở vào, tôi thấy được bản chất thèm khát của tôi Ở trong kinh Samadhi Đức Thế Tôn có dạy rằng Không biết rõ ái dục. Mới vướng vào ái dục.
Biết bản chất của ái dục. Ai quyến rũ được mình Mình là con người tự do. Càng tự do, càng hạnh phúc không có tự do thì không có hạnh phúc. Là một người tu, cái quan trọng nhất chính là tự do. Bài tập thứ mười lăm: Quán chiếu vô sinh, niết bàn Đây là một pháp tu rất là mầu nhiệm. Bề mặt thì có tới có đi, có sinh có diệt, có còn có mất. Mà nhìn cho kỹ thì bản chất của vạn hữu là vô sinh bất diệt, không tới không đi, không có không không. Đây chính là đối tượng của Tâm Kinh Bát Nhã mà người tu tụng mỗi ngày. Ví dụ đám mây, bản chất của nó là vô sinh, bất diệt. Đám mây không phải từ không mà trở thành có.
Trước khi nó là đám mây thì nó là nước của đại dương Sự có mặt của đám mây chỉ là sự tiếp nối của sức nóng và nước thôi. Vì vậy đám mây không phải từ không mà trở thành có, đám mây chẳng qua chỉ là sự nối tiếp, bản chất của nó là vô sinh. Tại vì sinh là gì ? là từ không mà trở thành có. Mà đám mây đâu có thể từ không mà trở thành có được ? Không có cái gì từ không mà trở thành có được hết. Anh cũng vậy, chị cũng vậy và tôi cũng vậy. Mình không tới từ không, cho nên nói từ hư không tới lại trở về hư không là không đúng đâu. Khi đám mây chết, đám mây thì làm sao mà chết được ? Chết tức là từ có mà trở thành không.
Làm sao mà đám mây trở thành không được ? Đám mây chỉ có thể trở thành tuyết, trở thành mưa, trở thành sương mù, thành nước đá chứ mây không thể nào trở thành hư vô được. Vì vậy cho nên bản chất của đám mây là vô sinh, vô diệt. Bản chất của Đức Thế Tôn là vô sinh bất diệt. Bản chất của mình cũng vậy là vô sinh bất diệt. Khi thấy được bản chất của mình là vô sinh bất diệt thì mình không sợ hãi nữa mình sẽ đạt được sự vô úy. Không có sự sợ hãi thì hạnh phúc mới thật là toàn hảo. Chừng nào còn sợ chừng đó hạnh phúc chưa toàn vẹn. Ví dụ một đợt sóng đi lên đi xuống, sóng có bắt đầu, có chung kết. Đợt sóng có thể nói mình cao hay mình thấp hơn ngọn sóng khác, mình đẹp hay là mình xấu hơn những ngọn sóng khác.
Tất cả những so sánh đó chỉ khiến cho con sóng lao đao, buồn khổ. Nhưng nếu đợt sóng quán chiếu thấy bản chất của mình là vô sinh, nếu nó thấy rằng bản chất của nó là nước, trước khi là sóng nó vốn là nước trong khi là sóng nó vẫn đang là nước, nếu thấy được như vậy thì dù lên hay xuống, đẹp hay xấu nó cũng vui. Vì vậy khi tiếp xúc được với bản chất của mình, tiếp xúc với tự tính của mình cái đó gọi là vô sinh. Vô sinh có nghĩa là vô dục, có nghĩa là vô khứ – vô lai, vô sinh đại diện cho tám cái vô gọi là bát không. Khi đám mây thấy được tự tính vô sinh bất diệt của mình thì là đám mây nó cũng hạnh phúc mà khi trở thành cơn mưa nó cũng hạnh phúc, trở thành dòng sông cũng hạnh phúc.
Mình cũng vậy, mình không còn sợ chết, không còn sợ sinh nữa. Tại vì sinh diệt chỉ là ý niệm. Thực tập được hơi thở thứ 15 rồi thì hơi thở thứ 16 rất là dễ thực tập. Bài tập thứ mười sáu: Quán chiếu buông bỏ. Buông bỏ đây là buông bỏ cái gì ? Đó là buông bỏ những ý niệm, những ý niệm về trước về sau, về trong về ngoài, về sinh về diệt. Ta phải buông bỏ hết tất cả những ý niệm đó. Nếu mình sợ, mình buồn, mình lo là vì có những ý niệm. Khi tiếp xúc được với bản chất vô sinh rồi thì mình có thể buông bỏ được tất cả. Ví dụ mình có một ý niệm về thời gian. Thời gian là một dòng trôi chảy liên tục nhưng vì mình có một ý niệm về thời gian cho nên mình mới chọn một điểm trong thời gian đó làm điểm sinh của mình.
Và tại vì mình đã sinh ra rồi cho nên mình phải chết đi. Cho nên phải có một điểm nào đó gọi là tử. Rồi từ hai ý niệm sinh – tử, mình có ý niệm thọ mạng . Mình có thể thọ 20 năm hay 100 năm. Từ đó mình nghĩ rằng trước khi sinh ra thì mình không có, mình chỉ có từ khi được sinh ra và mình sẽ chấm dứt khi mình chết, nghĩa là mình từ không mà trở thành có, rồi từ có lại trở thành không, thế nên mới có ý niệm : có – không ; trước – sau ; sinh – tử làm cho mình điên đầu. Vì vậy, buông bỏ ở đây là buông bỏ tất cả những ý niệm đó. Buông bỏ được thì mình trở thành một con người tự do, không sợ hãi và lúc đó là hạnh phúc tuyệt diệu. Đó là hạnh phúc của Đức Thế Tôn đã dạy rằng hễ là con người thì ai cũng có thể đạt được tới cái đó hết.
https://www.youtube.com/watch?v=X-Ov_BzEh_E
https://youtu.be/X-Ov_BzEh_ENgày tôi khám phá ra kinh Hơi Thở Chánh Niệm tôi rất hạnh phúc xem như mình đã tìm ra một kho báu có cảm tưởng tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Trong phạm vi một giờ đồng hồ tôi sẽ trình bày 16 hơi thở như thế nào để quí vị có thể nắm và thực tập